Trên con đường Thanh Tân, phường Thanh Khê Đông, thành phố Đà Nẵng có một di tích lịch sử cấp thành phố mang tên “chùa làng và nhà thờ chư phái tộc Thanh Khê”.
Dấu ấn khai khẩn vùng đất
Một chốn tâm linh của cư dân làng Thanh Khê xưa, nay ở giữa phố xá đông đúc, nhà cửa san sát và xe cộ tấp nập. Nhưng khi bước qua cánh cổng vào chùa, một miền ký ức yên tĩnh, thanh tịnh và đậm chất làng quê vẫn còn đó.
Chuyện rằng, từ giữa thế kỷ 16 đến giữa thế kỷ 18, cùng với sự kiện chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, một dòng người phương Bắc đã di cư vào phương Nam, góp phần hình thành cộng đồng cư dân tại khu vực Bắc Quảng Nam - Đà Nẵng.
Ghi nhận từ ý kiến nhà nghiên cứu Huỳnh Công Bá trong hồ sơ di tích về “Chùa làng và nhà thờ chư phái tộc Thanh Khê”, công cuộc khai khẩn giai đoạn này mang tính tự phát nhưng bền bỉ, tiến hành theo hình thức “tằm ăn dâu”, vừa mở rộng làng cũ, vừa lập làng mới.
Trong gần hai thế kỷ ổn định, vùng đất này đã chuyển mình mạnh mẽ. Từ các dải đất hoang hóa ven biển, nhiều làng xã được hình thành, trong đó có dân làng Thanh Khê định cư dọc theo tuyến từ chân đèo Hải Vân đến Ngũ Hành Sơn.
Tài liệu của Ban nghi lễ làng Thanh Khê ghi lại: năm 1627, ông Hồ Văn Oai từ phủ Đức Quang (nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh) cùng ba người con vào Nam lập nghiệp. Người con trai là Hồ Văn Tri dừng chân tại vùng đất ven biển này, khai phá lập nên hai làng Phú Lộc và Thanh Khê, được suy tôn là tiền hiền của làng. Viếng hương ở chùa làng Thanh Khê.
Tên “Thanh Khê” bắt nguồn từ khe nước cổ gọi là khe Đò Đầu, có dòng chảy từ Xuân Thiều qua Hòa Mỹ, Phú Lộc rồi đổ ra Biển Đông. Khe nước trong mát quanh năm, là nơi ghe thuyền trú ẩn mùa biển động và là nguồn sống của dân làng.
Trên vùng đất cát hoang sơ, các vị tiền hiền, hậu hiền và cư dân đã dần hình thành các xóm như Thanh Phong, Đông An, Thanh Thị, Thanh Hòa, Thanh Minh, Thanh An, Thanh Thủy cùng nhiều thiết chế văn hóa tín ngưỡng. Hiện làng có 45 tộc họ hậu hiền, trong đó có các tộc lớn như Nguyễn, Trần, Lê, Võ, Phạm, Hồ, Huỳnh, Đặng, Đào, Tôn...
Trong “Phủ biên tạp lục” (1776), Thanh Khê được ghi nhận là một trong 20 xã thuộc Biệt Nạp của phủ Thăng Hoa. Theo địa bạ triều Nguyễn năm Gia Long thứ 14 (1815), thôn Thanh Khê thuộc tổng Bình Thái Hạ, huyện Hòa Vang, phủ Điện Bàn, trấn Quảng Nam, có diện tích hơn 314 mẫu, với đầy đủ đất tư điền, hoang nhàn và cát trắng.
Quá trình định cư và ổn định đời sống ở Thanh Khê cũng đồng thời là quá trình định hình bản sắc văn hóa. Cư dân mang theo truyền thống văn hóa từ đất tổ, hòa quyện cùng văn hóa bản địa, tạo nên không gian làng xã đặc trưng với các thiết chế tín ngưỡng như: đình làng, lăng Ông, miếu Tam vị, mộ Tiền hiền, chùa làng và nhà thờ chư phái tộc.
Mạch nguồn văn hóa
Sau Đạo dụ năm 1888 của vua Đồng Khánh và nghị định của Toàn quyền Đông Dương, Đà Nẵng trở thành đất nhượng địa, Thanh Khê thuộc khu vực Tourane. Giai đoạn 1954-1973, Thanh Khê là khu phố trực thuộc khu Đà Nẵng. Từ năm 1973-1996, thuộc phường Thanh Lộc Đán, quận 2, thành phố Đà Nẵng, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Đến năm 1997, khi Đà Nẵng trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, quận Thanh Khê được thành lập, lấy theo địa danh làng Thanh Khê - minh chứng cho vị thế lịch sử, địa văn hóa của làng đối với toàn đô thị. Năm 2005, phường Thanh Lộc Đán chia tách, phường Thanh Khê Đông chính thức trở thành đơn vị hành chính cấp phường, nơi lưu dấu di tích “Chùa làng và nhà thờ chư phái tộc Thanh Khê”...
Chùa làng Thanh Khê, có tên gọi cũ là chùa Thanh Hòa, được hình thành trong tiến trình xây dựng làng Thanh Khê. Ban đầu, chùa được dựng bằng tranh tre, vách đất, thờ Phật và hương linh các chư phái tộc trong làng. Theo lời kể của các bậc cao niên, cách bài trí thờ tự từ xưa đến nay vẫn giữ nguyên cấu trúc: ban thờ Phật ở vị trí cao nhất, tiếp đến là các ban thờ tổ tiên các họ tộc.
Mặc dù không ai biết rõ thời điểm chính xác xây dựng, nhưng tại tiền môn chùa hiện có ghi niên đại khởi dựng vào năm Cảnh Hưng 1740. Như vậy, sau hơn 100 năm kể từ khi lập làng (1627), việc cộng đồng các họ tộc cùng chung tay dựng chùa để thờ Phật và tưởng niệm tiền nhân là điều hoàn toàn có cơ sở lịch sử. Chùa hiện còn quả đại hồng chung đúc năm Thiệu Trị thứ 4, do gần một trăm đạo hữu trong làng phụng cúng.
Khoảng 20 năm trước, nhân dân phường Thanh Khê Đông xây dựng ngôi chùa mới bên cạnh chùa làng cũ theo kiến trúc truyền thống để thờ Phật, Bồ tát, tiền hiền Hồ Văn Tri và các liệt sĩ làng Thanh Khê. Chùa cũ cũng được trùng tu, lợp lại mái ngói và chuyển công năng thành Nhà thờ Chư phái tộc. Đây cũng là nơi thờ tự 45 tộc họ trong làng. Hiện khuôn viên di tích còn có phần mộ của 5 liệt sĩ.
Theo ông Lê Văn Lễ, Phó ban Quản lý chùa làng Thanh Khê cho biết, từ khi thành lập đến nay, chùa làng Thanh Khê trải qua 3 lần trùng tu. Hiện khuôn viên chùa và Nhà thờ Chư phái tộc Thanh Khê có tổng diện tích hơn 2.370m2.
Ngoài hệ thống thờ tự với nhiều tượng thờ, khám thờ, bên trong chính điện còn được trang trí nhiều hoành phi, liễn đối. Đặc biệt, từ lúc khởi dựng đến nay, chùa làng Thanh Khê luôn mang tính chất ngôi chùa dân gian, lặng lẽ gìn giữ mạch nguồn văn hóa, tín ngưỡng và hồn cốt làng quê, trở thành điểm tựa tinh thần bền vững của cộng đồng dân cư làng Thanh Khê xưa và nay.
Tiểu Yến (Báo Đà Nẵng)