Tôi có diễm phúc sinh sống ở Huế được bảy năm. So với cuộc đời con người thì thời gian đó chưa phải là dài, song cũng đủ để người ta gắn bó để rồi thầm thương, thầm nhớ mỗi khi phải đi xa. Từ hồi còn là chàng sinh viên nghèo, với chiếc xe đạp cà tàng, không biết bao nhiêu lần tôi đã lên thăm chùa Thiên Mụ mỗi dịp Chủ nhật, để rồi tiếng chuông thu không trầm hùng, lắng đọng lan tỏa giữa không gian bàng bạc màu sương khói của chốn đế kinh cứ theo tôi suốt dọc dài trong từng nỗi nhớ nhung vời vợi trên đất khách quê người thăm thẳm niềm nhật mộ hương quan.
Về mặt Phật học, tôi được biết tất cả các pháp khí trong đạo Phật đều là những bài kinh vắn tắt, là phương tiện cần thiết, biểu dương ý nghĩa cao thâm của Chánh pháp và giúp người tu hành thêm phần dễ dàng tiến tu trên đường giải thoát. Đối với chuông, kinh Tăng Nhất A- hàm có chép: “Mỗi khi tiếng chuông chùa ngân vang thì những hình phạt trong ác đạo được tạm thời dừng nghỉ, chúng sanh chịu hình phạt được tạm thời an vui”.
Có lẽ vì vậy, cứ mỗi sớm tối tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga vang vọng như nhắc nhở mọi người có ý thức tinh tấn tu hành để chóng vượt ra ngoài vòng tối tăm đau khổ, hay đoạn trừ đi 108 điều phiền não theo quan niệm của nhà Phật. Tiếng chuông còn cứu rỗi cho bao hồn ma, bóng quế lưu lạc lắng nghe để quay về nương tựa đạo pháp nhiệm mầu của mười phương Tam bảo.
Và tiếng đại hồng chung ấy còn hướng tâm tư con người về nẻo từ bi. Khắp vùng xung quanh chùa Thiên Mụ, không ai là không biết đến câu chuyện một vị hoàng hậu nọ do làm điều tai ác trên dương gian đến khi chết thì bị biến thành con Bồ Lao1 hai đầu sống dưới nước và luôn phải chạy trốn, kêu la do bị cá Kình đuổi giết. Tiếng kêu cứu của nó thảm thiết thấu tận trời xanh. Thấy vậy Đức Phật cảm thương cho nó quy y đạo pháp, làm chiếc quai chuông để sớm tối được nghe tiếng chuông chùa mà sám hối lỗi lầm và thức tỉnh. Như vậy, câu chuyện Bồ Lao của dân gian vùng Thiên Mụ không chỉ gợi lên bài học về luật nhân quả gieo gió ắt sẽ gặp bão để luôn tu tâm tích đức, năng làm điều thiện mà còn thấy được ý nghĩa của tiếng chuông chùa dẫn đường chỉ lối cho những kẻ lầm lỗi quay về bể giác.
Trong cuộc sống đời thường, tiếng chuông chùa Thiên Mụ còn mang một hạnh nguyện thiết thực, trở thành giờ giấc trong sinh hoạt sản xuất của nhân dân. Người dân sinh sống quanh vùng liên địa từ An Bình, Lựu Bảo, An Ninh, Trúc Lâm, An Vân, An Hòa cho đến các làng xa hơn như La Chữ, Phụ Ổ, Quê Chữ, Hương Cần, Đốc Sơ, rồi mạn Tây nam thì có các làng Long Hồ, Ngọc Hồ, Hải Cát lên cho đến Bằng Lãng, mạn Lương Quán, Nham Biều, Dương Xuân, Cư Chánh, Dương Phẩm... đều dậy mở trâu ra đồng hoặc dậy sinh hoạt theo các nghề nghiệp của mình từ lúc chuông chùa Thiên Mụ đánh, hoặc từ khi hồi chuông nhập. Do vậy, từ rất lâu đã có một câu ca nổi tiếng về tiếng chuông Thiên Mụ:
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương
Cứ tối lại sáng ra, mọi sinh hoạt được kết thúc hay bắt đầu đều căn cứ vào tiếng chuông Thiên Mụ.
Những bậc tu hành thường dùng mỹ từ “thỉnh chuông” đầy tôn kính và mang ý nghĩa tôn giáo để nhắc nhở bản thân luôn luôn phải giữ giới luật đến độ nghiêm túc tuyệt đối trong việc thỉnh chuông, gắng công tu đạo đêm ngày mới mong đạt đến chân tu. Còn đối với dân gian, họ gọi nôm na là “chuông rung” để biết lo toan công việc mưu sinh. Chuông rung buổi sáng là họ trở dậy với bao công việc từ lo cơm nước, lo cái ăn, lo ra đồng ra ruộng vun xới cây trồng... Những o, những mệ buôn thúng bán mẹt thì lo quang gánh quẩy đi vô vàn những món ăn quê mùa từ xôi bắp, bắp luộc, bánh lọc, bánh canh... xuống khắp các nẻo đường về dưới phố chợ phục vụ cho cư dân Huế điểm tâm sáng trước khi bước vào ngày làm việc mới. Cứ như thế, đã hàng trăm năm rồi tiếng chuông Thiên Mụ có ảnh hưởng nhân sinh quá rộng rãi đến độ nếu có một lần nào đó chuông không rung, tức khắc trong đời sống nhân dân quanh vùng sẽ có xáo trộn.
Tiếng chuông chùa Thiên Mụ không chỉ lặng lẽ đồng hành cùng con người xứ Huế lúc tu đạo tu đời mà còn trải bao tháng năm, bao thăng trầm dâu bể khi Phật giáo Việt Nam nói chung và Phật giáo Huế nói riêng còn được xem là quốc giáo cho đến thời kỳ Pháp thuộc, thời kỳ dầu sôi lửa bỏng dưới chế độ độc tài, kỳ thị tôn giáo của Ngô Đình Diệm, tiếng chuông vẫn nhẫn nại, nhẫn nhục vang lên cùng tuế nguyệt, gửi đến mọi ngóc ngách bể dâu âm thanh thuần túy mang hồn dân tộc, một âm thanh trong trẻo êm ái, dịu nhẹ, thanh thoát và huyền diệu.
Tóm lại, tiếng chuông Thiên Mụ là âm thanh của văn hóa, của nếp sống và của đạo Phật. Nó đã trở thành luồng sinh khí của người dân, trở thành tiếng nhắc nhở quê hương, của núi sông xinh đẹp, trở thành cái không thể thiếu được đối với cư dân vùng sông Hương núi Ngự. Ai là con dân xứ Huế phải xa lìa quê hương bản quán lại không từng thắt lòng bởi nhớ thương hồi chuông Thiên Mụ trong từng sáng từng chiều thong thả ngân nga thấm đẫm đến tận chiều sâu tâm hồn để rồi sống tốt hơn, đẹp hơn!
1. Bồ Lao là tên của một linh vật, được coi là con thứ ba của Rồng, được đúc cách điệu trên quai chuông.
Theo VietNamNet



