PSO - Sáng ngày 15/12/2022 (22/11/Nhâm Dần), chư tôn đức Tăng Ni và Phật tử tỉnh Phú Yên đã tề tựu về tổ đình Bảo Tịnh, trang nghiêm cử hành lễ Huý nhật đức Tổ sư Thiệt Diệu – Liễu Quán, người khai sáng thiền phái mang danh Ngài, cũng là Tổ khai sơn tổ đình Bảo Tịnh (TP.Tuy Hoà).
Về dâng hương lễ Tổ có chư Tôn đức Giáo phẩm: HT.Thích Tâm Thủy – Thành viên HĐCM, Chứng minh BTS GHPGVN tỉnh Phú Yên; HT.Thích Thiện Đạo - Thành viên HĐCM, Chứng minh BTS GHPGVN tỉnh Đồng Nai; HT.Thích Quảng Phát – Chứng minh BTS GHPGVN tỉnh Phú Yên; HT.Thích Đồng Tiến – Ủy viên HĐTS, Trưởng Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Phú Yên; HT.Thích Thông Hòa – HT.Thích Quảng Giải, đồng Phó Trưởng BTS tỉnh; ĐĐ.Thích Nguyên Minh – Ủy viên HĐTS, Phó trưởng Ban Thường trực BTS tỉnh; ĐĐ.Thích Chúc Phát – Phó trưởng BTS kiêm Chánh Thư ký BTS GHPGVN tỉnh; chư Tôn đức Tăng, Ni, Phật tử trong tỉnh cùng về lễ Tổ.
Trước đó một ngày, lễ tưởng niệm đức Tổ sư cũng được cử hành tại chùa Cổ Lâm Hội Tôn (xã An Ninh Tây, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên) nhân kỷ niệm lần thứ 280 năm ngày viên tịch của Ngài.
Trước hương án Tổ đường, ĐĐ.Thích Nguyên Minh – Ủy viên HĐTS, Phó trưởng Ban Thường trực BTS Phật giáo tỉnh đã cung tuyên tiểu sử đức Tổ Liễu Quán.
Tiếp đó, HT.Thích Tâm Thủy ban lời huấn từ đến đại chúng. Hoà thượng đã ôn lại công hạnh của Tổ, bậc tiền bối Tổ sư có nhiều công hiến cho việc truyền thừa Phật giáo tại Việt Nam. Nhân đây, Hoà thượng khuyến tấn đại chúng tiếp nối tinh thần tu học của Tổ sư, hầu xứng đáng là hàng hậu bối, người con đất Tổ.
Tiểu sử Đức Tổ sư Thiệt Diệu – Liễu Quán
Đức Tổ sư họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên, nay là xã An Thạch, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Ngài xuất thân từ một gia đình nghèo khó, 6 tuổi mẹ mất, ở với phụ thân. Năm 12 tuổi (1678), ngài phát tâm xuất gia tu hành, được thân phụ đưa ngài đến chùa Hội Tôn, thọ giáo với Hòa thượng Tế Viên (người Hoa) được 7 năm thì Hòa thượng viên tịch. Tuổi đời còn nhỏ, tuổi đạo chưa cao, với quyết tâm cầu đạo, ngài không quản ngại gian lao tầm đường ra đất Thuận Hóa đến núi Hàm Long chùa Thiên Thọ (Báo Quốc) cầu học với Giác Phong lão tổ (người Hoa), đó là năm Canh Ngọ (1690).
Vừa tròn 01 năm, đến năm Tân Mùi (1691), ngài phải bái biệt Giác Phong lão tổ để trở về quê hương phụng dưỡng cha già đau yếu. Hàng ngày, ngài phải lên núi đốn củi đem về chợ đổi gạo nuôi cha, chạy thầy lo thuốc, chăm sóc phụ thân được 4 năm thì thân phụ qua đời.
Năm Ất Hợi (1695), ngài trở ra Thuận Hóa để tiếp tục việc tu học, cùng trong năm này ngài thọ Sa-di giới với Hòa thượng Thạch Liêm (người Hoa). Năm Đinh Sửu (1697), ngài thọ Đại giới với Hòa thượng Từ Lâm (người Hoa). Năm Kỷ Mão (1699), ngài bắt đầu cuộc hành trình tham vấn cầu đạo khắp các thiền lâm, chịu bao nhiêu điều khó khăn đạm bạc. Đến năm Nhâm Ngọ (1702), ngài đến núi Long Sơn chùa Ấn Tôn (Từ Đàm) bái yết Minh Hoằng Tử Dung Hòa thượng cầu dạy pháp tham thiền. Đến mùa xuân năm Mậu Tý (1708), Ngài trở ra Long Sơn cầu Hòa thượng Tử Dung ấn chứng.
Sau đó, ngài vào núi Thiên Thai lập am tu thiền. Hằng ngày Tổ sống khắc khổ, đạm bạc bằng vật thực mọc ở ven hồ chẳng cần lương thực gì khác.
Trú xứ hóa duyên của ngài rất rộng, ngài thường xuyên ra vào Huế, Phú Yên để hóa đạo. Từ năm Canh Dần (1710) đến năm Tân Sửu (1721), Tổ đã chống tích trượng đi khắp nẻo làng quê của đất Phú Yên từ hòn Mõ, ra tận hòn Chuông để hoằng hóa chánh pháp, tiếp Tăng độ chúng, khai lập chùa chiền. Tổ đã khai sơn chùa Bảo Tịnh tại Tuy Hòa. Đến năm Nhâm Dần (1722), ngài trở ra Huế cùng với vị đệ tử út tên là Tế Vĩ trụ tại Thiên Thai Huyền Tôn tự, tiếp tục việc hoằng hóa ở đất Thần kinh.
Năm Quý Sửu (1733), năm Giáp Dần (1734) và năm Ất Mão (1735), ngài được sự thỉnh cầu của các tông môn ở Huế, chứng minh các Đại giới đàn tại đây. Năm Canh Thân (1740), ngài tấn đàn Long Hoa phóng giới cho đàn hậu tấn. Thời ấy chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738 – 1765) rất mến đạo hạnh của ngài nên thường đến chùa Viên Thông đàm đạo và thỉnh ngài vào cung để bàn luận Phật pháp nhưng ngài từ chối khéo không vào. Mùa Xuân năm Nhâm Tuất (1740), ngài làm Hòa thượng Đàn đầu cho Đại giới đàn tại chùa Viên Thông.
Sáng ngày 22-11-Nhâm Tuất (1742), ngài vẫn dùng trà và đàm đạo cùng các đồ đệ. Đến quá trưa, Ngài hỏi mấy giờ, các đồ đệ thưa: Giờ Mùi, sau khi dạy đệ tử vài điều, ngài an nhiên thị tịch, thọ 76 tuổi.
Nhục thân Tổ tôn trí trong bảo tháp tại tổ đình Thiền Tôn, trên núi Thiên Thai, Huế. Ngôi bảo tháp được chúa Nguyễn Sắc làm bia và xây dựng kiên cố, trải qua thời gian hơn hai thế kỷ mà vẫn giữ vẻ uy nghiêm mỹ lệ.
Trước khi ngài viên tịch, ngài phú pháp cho hàng đệ tử và truyền kệ như sau:
“Thiệt tế đại đạo,
Tánh hải thanh trừng,
Tâm nguyên quảng nhuận,
Đức bổn từ phong,
Giới định phước tuệ,
Thể dụng viên thông,
Vĩnh siêu trí quả,
Mật khế thành công,
Truyền trì diệu lý,
Diễn xướng chánh tông,
Hành giải tương ưng,
Đạt ngộ chơn không.”
Tổ sư Liễu Quán đã làm cho thiền phái Lâm Tế trở thành một tông phái đặc thù và linh động, có một nền móng vững chắc ở đàng Trong (tức là từ Thanh hóa trở vào). Trước khi Tổ Liễu Quán xuất hiện, thiền phái Lâm Tế ảnh hưởng của Trung quốc (vì có ngài Nguyên Thiều, ngài Thạch Liêm, ngài Tử Dung, v.v..). Chính Tổ Liễu Quán đã Việt hóa tất cả từ văn hóa, kiến trúc và nghi lễ, v.v…
Ngài có bốn vị đệ tử lớn: Tổ Huấn, Trạm Quan, Tế Nhân và Từ Chiếu. (Từ Chiếu, húy Tế Căn. Khai sơn chùa Hồ Sơn, Tuy Hòa, Phú Yên). Bốn ngài này đã tạo lập bốn trung tâm Hoằng dương chánh pháp lớn lao khắp đó đây ở đàng Trong. Và từ thế kỷ thứ 18 trở về sau này nghiễm nhiên với danh xưng Thiền Phái Liễu Quán.
Được biết, hằng năm, ngày 22/11 âm lịch lễ Tưởng niệm đức Tổ Sư Liễu Quán chính chức được cử hành tại tổ đình Bảo Tịnh (TP.Tuy Hoà), nơi tổ khai sơn.
Hình ảnh tại chùa Cổ Lâm Hội TônHình ảnh tại tổ đình Bảo Tịnh
Ban TT-TT Phật giáo Phú Yên