PSO – Vừa qua, ngày 23/10/2020 (mùng 07/9 năm Canh Tý) tại đạo tràng chùa Khánh Thạnh - Phổ Độ (Ấp Sơn Trắng, Nhị Long Phú, Càng Long, Trà Vinh), Đại đức Trụ trì Thích Minh Độ đã thành kính tổ chức lễ Tưởng niệm Lục thất Trai tuần Trưởng lão Hòa thượng ân sư Thích Minh Hùng - nguyên Trưởng đoàn Sơn Tăng Khất sĩ, Viện chủ tịnh xá Ngọc Sơn Dinh (Bà Rịa-Vũng Tàu); viên tịch ngày 24 tháng 7 năm Canh Tý.
Lễ tưởng niệm có sự quang lâm chứng minh của HT.Thích Tâm Linh - Chứng minh BTS GHPGVN tỉnh Trà Vinh; TT.Thích Trí Minh - UV HĐTS, Phó trưởng Ban Thường trực BTS GHPGVN tỉnh; TT.Thích Huệ Pháp - Phó BTS kiêm Trưởng ban Tăng sự GHPGVN tỉnh; TT.Thích Minh Nhựt - Phó BTS GHPGVN tỉnh; TT.Thích Minh Chánh - Phó BTS GHPGVN tỉnh Cà Mau; ĐĐ.Thích Tâm Khiết - Chánh thư ký BTS GHPGVN tỉnh; TT.Thích Phước Hạnh - Trưởng ban Pháp chế GHPGVN tỉnh; ĐĐ.Thích Phước Nguyên – Trưởng ban Hoằng pháp GHPGVN tỉnh; ĐĐ.Thích Huệ Thắng – Trưởng ban Kiểm soát GHPGVN tỉnh; ĐĐ.Thích Huệ Hùng – Trưởng ban Hướng dẫn Phật tử Phật giáo tỉnh; ĐĐ.Thích Huệ Đạt - Trưởng ban Thông tin Truyền thông GHPGVN tỉnh; ĐĐ.Thích Trí An – Trưởng ban Văn hóa GHPGVN tỉnh; ĐĐ.Thích Huệ Chiếu – Trưởng ban Kinh tế Tài chánh GHPGVN tỉnh; ĐĐ.Thích Nguyên Phước – Phó ban Nghi lễ GHPGVN tỉnh; ĐĐ.Thích Huệ Phổ - Chánh Thư ký BTS GHPGVN huyện Bình Tân (tỉnh Vĩnh Long); ĐĐ.Thích Minh Hải, ĐĐ.Thích Như Đạt, ĐĐ.Thích Minh Trí - đồng Phó chánh Văn phòng BTS GHPGVN tỉnh; ĐĐ.Thích Thiện Đạo - Chánh văn phòng Trường TCPH tỉnh Trà Vinh; NT.Thích Nữ Như Thiền - Chứng minh Phân ban Ni giới GHPGVN tỉnh; NS.Thích Nữ Trung Hiền - Trưởng PBNG Phật giáo tỉnh; NS.Thích Nữ Như Thường - UV Thường trực BTS GHPGVN tỉnh; NS.Thích Nữ Trung Đức, NS.Thích Nữ Như Thức, NS.Thích nữ Trung Hoài - đồng Phó PBNG Phật giáo tỉnh.
Về phía chính quyền có sự tham dự của bà Tô Thị Thu Hồng - Phó trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy; ông Đào Văn Nhiêu - Phó trưởng Phòng An ninh đối nội Công an tỉnh Trà Vinh; ông Trần Văn Mạnh - Phòng An ninh đối nội Công an tỉnh; ông Nguyễn Văn Lên - Bí thư Đảng ủy xã Nhị Long Phú; ông Nguyễn Văn Song – Chủ tịch UB MTTQVN xã; bà Cao Thị Bích Liên - Bí thư Đảng ủy xã Đức Mỹ; ông Nguyễn Tấn Khải - Chủ tịch UBND xã Đức Mỹ; bà Nguyễn Thị Út Nhứt - Chủ tịch UBND xã Huyền Hội; bà Lê Thị Thúy Hằng – Chủ tịch UB MTTQVN xã Nhị Long; ông Trần Văn Tám - Trưởng ban Nhân dân ấp Sơn Trắng, cùng đại diện ban ngành đoàn thể các cấp.
Tại buổi lễ, ĐĐ.Thích Minh Độ đã dâng lên lời tác bạch tưởng niệm vị Ân sư khả kính vừa viên tịch trong sự thành kính không nguôi. Cố HT.Thích Minh Hùng xuất gia từ lúc 18 tuổi với Sư cả Thích Từ Huệ tại tịnh xã Mỹ Đức, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang; cố Hoà thượng đã dấn thân mình cho Phật pháp, chuyên tâm trau dồi phạm hạnh. Duyên lành đến, Hoà thượng được Sư trưởng Thích Huỳnh Minh truyền thừa làm môn phong thứ 21. Kể từ đó, Hoà thượng lập chí thành lập đoàn du Tăng để cất bước hoằng hoá chúng sanh. Cuộc đời của cố Hoà thượng là sự minh chứng bất khuất cho đức hạnh cao cả. Ngài đã vân du khắp các tỉnh thành miền Nam để hoá độ, rộng truyền Chánh pháp cho dân chúng trong giai đoạn 1975 – 1988. Trong năm 1988, tịnh xá Ngọc Sơn Dinh đặt viên đá đầu tiên và đến năm 1990 được công nhận sinh hoạt trong hệ thống tự viện của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Đây cũng là nơi dừng chân cuối cùng của Ngài.
Trong nghi thức trang nghiêm, khói hương quyện tỏa, đạo tràng đã lắng tâm nghe lại từng dòng tiểu sử của cố Hoà thượng mà bùi ngùi cảm khái cho một bậc chân tu.
Tại buổi lễ, chư Tôn đức đã cung đối trước Giác linh đường thắp hương tưởng niệm cố Hòa thượng Thích Minh Hùng; sau đó chứng minh nghi thức cúng dường Trai Tăng của môn đồ Pháp quyến.
Dịp này chư Tăng và Phật tử chùa Khánh Thạnh cũng tổ chức tặng quà người nghèo, giúp đỡ các hoàn cảnh khó khăn tại địa phương.
Dưới đây là Tiểu sử tóm lược của cố Hoà thượng Thích Minh Hùng:
TIỂU SỬ HOÀ THƯỢNG THÍCH MINH HÙNG
(Nhâm Ngọ 1942 - Canh Tý 2020)
- Cội nguồn và thân thế:
Hoà thượng thế danh Văn Hoàng Ẩn, sinh ngày 20/11/1942 (Nhâm Ngọ). Quê quán tại làng Bảy Sào, xứ Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng. Thân sinh là cụ ông Văn Viết Phi Líp, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Lành. Hoà thượng là thứ nam trong gia đình có 08 anh em, có truyền thống gia giáo và sùng tín Phật pháp.
- Xuất gia, học đạo và hoá đạo:
Nương nhờ nơi cha mẹ có truyền thống sùng tín Phật pháp, từ rất sớm Hoà thượng đã có túc duyên với cửa thiền, thường lui tới chốn không môn, nghe kinh, lễ Phật. Đến năm 18 tuổi, Ngài được song thân cho phép tầm sư học đạo, xuất gia.
- Xuất gia, học đạo:
- Năm 1960 tại tịnh xá Mỹ Đức, TP.Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang; Ngài được Đức Thầy Thích Từ Huệ thu nạp và cho phép thế phát xuất gia, được Bổn sư ban pháp danh: Huệ Hùng tự là Minh.
- Năm 1961 Ngài thọ Sa di giới do chính Đức Thầy Từ Huệ làm Bổn sư truyền giới pháp. Từ đó tín tâm chuyên nhất, hạnh đức rèn trau, công phu - công quả chuyên cần, nhờ đó được Tổ thầy ban đổi pháp huý chính thức là Minh Hùng.
- Năm 1963 Ngài được Bổn sư truyền thụ Tỳ kheo giới.
Sau khi thọ lãnh giới pháp, tam y, 01 bát tuỳ thân, theo đường lối Phật tổ thừa truyền, hạnh tứ y hàng thích tử lập chí, trên xin giáo pháp, dưới hoá độ quần sanh. Cũng vào năm đó (1963) Ngài có nhân duyên thực hành hạnh Tứ y pháp, vân du về miền đông, đến xứ Hội Bài, Núi Dinh. Ngài đã nhập thất tĩnh tu tại đây trong một thời gian ngắn.
- Thọ pháp và hoá đạo:
Thừa hành hạnh khất sĩ du phương, Ngài tiếp tục vân du, vừa tự giác vừa giác tha làm bổn nguyện. Cuộc hạnh ngộ nơi tịnh xá Phụng Hoàng, đồi Sơn Công, Núi Dài Văn Liên, Tri Tôn, An Giang là dấu ngoặt cho một hành trình lớn của sự chuyển hoá tâm linh và sự nghiệp của Ngài. Nơi đây, Ngài đã diện kiến Sư Trưởng Thích Huỳnh Minh là Sơn chủ, và được Sư Trưởng tiếp nhận làm pháp tử, liệt vào hàng môn phong thứ 21, được truyền dạy pháp ấn. Chính nhân duyên này đã khiến chí lập đoàn du Tăng Sơn Tăng đã hình thành trong hạnh nguyện của Ngài.
Rời Phụng Hoàng sơn lãnh, vì chí nguyện lớn lao, sức học đòi quảng đại, trên bước đường khất thực du phương, nơi nào nghe có bậc tôn trưởng cao minh, Ngài đều cung kính thọ học, tham vấn tư lương giáo hạnh. Thế mới hay, tôn chỉ sau này của Đoàn Khất Sĩ Sơn Lâm, “Chẳng nệ bắc nam trung, chọn lọc tinh hoa giáo điển. Không phân thiền tịnh mật, góp nhặt diệu chỉ thừa hành.”
Những năm 1975 đến 1988, Ngài du hoá khắp miền sông nước, thôn quê, thị thành như: Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, vùng Lấp Vò, Vàm Cống tỉnh đồng Đồng Tháp, miền bãi cồn Tân Châu, Châu Đốc; miền Thất Sơn An Giang; đến những hải đảo hòn ghềnh xa vắng, Liên Tôn Cổ tự Hòn Nghệ, Hòn Heo Đảo, chùa Hang Ba Hòn, Hòn Sơn, Hòn Tre, đảo Phú Quốc… xứ Rạch Giá, Kiên Giang, vừa tu tập vừa tiếp Tăng độ chúng. Cảm hoá môn đệ xuất gia, đoàn vân du mấy mươi người trang nghiêm, uy kính, tín đồ cư sĩ cảm mộ quy y, thọ trì trai giới kể đến hàng trăm.
- Kiến lập đạo tràng:
Đến năm 1988, đất hoang vu Núi Dinh lại chào đón bậc chân tu trở về. Pháp tử Thích Giác Nhi, là người đệ tử do Ngài truyền trao giới pháp Tỳ kheo, đã về đây khai hoang mở lối và phát tâm hiến cúng mảnh đất thiêng, Núi Dinh làm điểm dừng chân, khai mở đạo tràng, tuyên dương diệu pháp.
Năm 1990 tịnh xá Ngọc Sơn Dinh chính thức được hình thành, khắp nơi tứ chúng tìm về tu học. Chư tôn đức đạo tràng lân cận hiệp hoà, đất cằn cỗi dần xanh tàng đạo lực.
- Tiếp Tăng độ chúng:
Thuở ấy, chư vị đệ tử y chỉ nương tựa với Ngài lai vãng cận kề, vừa tịnh tu vừa hiệp sức gầy dựng đạo tràng như: HT.Thích Giác Điệp, cố TT.Thích Giác Trọng, HT.Thích Giác Viên, v.v... Khi hình thành Tịnh xá nơi đây, thế hệ đại đệ tử xuất gia là: Cố TT.Thích Minh Tâm, TT.Thích Minh Pháp, TT.Thích Minh Chính, ĐĐ.Thích Minh Phương, Thích Minh Phước, Thích Minh Hiển, Thích Minh Hiếu v.v… Ni chúng cũng được Ngài tiếp độ như Sư cô Thích Nữ Trí Liên, Tịnh Liên, Tuyên Liên, v.v.. Đặc biệt nhất là Ngài đã hoá độ được thân mẫu xuất gia, thọ Tỳ kheo Ni giới, pháp danh Ngọc Liên.
III. Thời kỳ viên mãn:
Trải qua hơn ba thập kỷ đặt dấu chân an trụ, tịnh xá hình thành phát triển. Tăng Ni tứ chúng môn đồ hàng trăm, tín chủ số ngàn lai vãng. Ngày 24 tháng 7 năm Canh Tý, Đức Ngài viện chủ tứ đại bất hoà, xả báo an tường thị tịch. Trụ thế 79 tuổi, hạ lạp 57 năm. Nhìn lại cuộc đời một bậc Ân sư khả kính, môn đồ pháp tử mạn phép tôn trình:
Thứ nhất: Gương học tu tự giác. Hoà thượng đối với kinh sách giáo điển nội hàm uyên thâm, kiến thức thế học tinh hoa tường lãm, nên sức hùng biện thuyết pháp giảng kinh thông thạo. Xứng tầm mô phạm cho môn đệ ngưỡng cầu tiến thủ.
Thứ hai: Gương hoà kính hiệp đoàn từ thuở còn sơ khai hoá đạo, Ngài thọ học với rất nhiều bậc tôn trưởng cao minh như đức Ngài Hòa thượng thượng Thiện hạ Hoa, tổ đình Ấn Quang; Ngài Pháp sư Thích Giác Nhiên, … Hoà thượng luôn được tín nhiệm từ những bậc tiền bối Thiền lâm như cố Hoà thượng Tổ đình Linh Sơn - Hòa thượng thượng Nhựt hạ Minh; cố Hoà thượng chùa Vạn Hạnh - Hòa thượng thượng Đồng hạ Huy; cố Hoà thượng tổ đình Quan Thế Âm – Hòa thượng thượng Thông hạ Bửu. Ngài thường nhắc nhở môn đồ công đức của cố Hoà thượng Vạn Linh - Vạn Đức, tán thán thiền quang Trúc Lâm của Hoà thượng thạch trụ Thiền tông Việt Nam – thượng Thanh hạ Từ v.v.. Nhờ thế mà tứ chúng quảng tu, tùy cơ thọ pháp. Gương sáng tự lực đại hùng mà hoà hiếu giao tình, quảng học cao minh ấy thật đáng tôn vinh, ngưỡng mộ.
Thứ ba: Việc tiếp Tăng độ chúng, kiến lập đạo tràng, phục hưng Tổ nghiệp: Đệ tử xuất gia có trên 300 vị Tăng Ni, thụ pháp y chỉ trên 50 vị; Phật tử quy y Tam bảo với Ngài có khoản 20 ngàn người.
Các đạo tràng, tịnh xá, tự viện ngài tạo dựng phục hưng như Liên Tôn cổ tự - Hòn Nghệ; tịnh xá Phụng Hoàng - Hòn Tre, tỉnh Kiên Giang; tịnh xá Phụng Hoàng - Cần Đước, Long An; chùa Phước Thạnh - Lấp Vò, Đồng Tháp….
Sau đây là một số hình ảnh tại lễ Tưởng niệm:















Minh Hiếu - Ban TTTT Phật giáo tỉnh Trà Vinh
