Đã có một vị huynh trưởng Gia đình Phật tử ở Bình Định nói rằng về được An Nhơn mà không đến chiêm bái chùa Di Đà ở gò Thập Tháp thì có khi cũng uổng một chuyến đi. Quả thật, bước vào ngôi cổ tự rợp bóng cổ thụ, du khách lập tức thấy lòng mình thanh thản, như được chìm vào một cảm giác an lạc đến kỳ lạ.
Ngày nay, tấm biển “Sắc tứ Thập Tháp Di Đà tự” được chúa Nguyễn Phúc Chu (Minh vương) ban rồi được Hòa thượng Mật Hoằng trùng khắc vào năm 1821 vẫn được treo giữa ngôi chính điện, cho thấy, có lẽ đúng như cách gọi tên của của vị huynh trưởng kia, tên gọi ban đầu của chùa là chùa Di Đà, còn Thập Tháp là một địa danh thêm vào để định vị cho rõ. Có lẽ sau này các vị tổ trụ trì đã cải danh thành chùa Thập Tháp và từ đó chùa được gọi tên như ngày nay.
Nằm ở phía Bắc thành cổ Đồ Bàn nay thuộc địa phận thôn Vạn Thuận, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn tỉnh Bình Định, chùa Thập Tháp được coi là ngôi chùa cổ nhất thuộc thiền phái Lâm Tế đã được xây dựng ở miền Trung và vẫn còn giữ được những nét cổ kính của cả một quần thể kiến trúc điêu khắc cùng với một toàn cảnh hài hòa giữa thiên nhiên.
Các nhà nghiên cứu cho biết, văn bia còn để tại chùa ghi nhận rằng chùa Thập Tháp là hậu thân của am Di Đà được ngài Nguyên Thiều Hoán Bích dựng ở làng Thuận Chánh huyện Tuy Viễn vào năm 1665 trong đời chúa Nguyễn Phúc Tần (Hiền vương); vì sau chùa có gò Thập Tháp, một gò đất có mười ngôi tháp cổ của người Chăm, nên sau này, khi chùa đã được xây dựng quy mô, người ta gọi là chùa Di Đà Thập Tháp, tên chữ là Thập Tháp Di Đà tự. Sách Đại Nam nhất thống chí nói chùa này được lập năm 1683, nhưng theo Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang thì niên đại này có lẽ để ghi nhận lúc chùa đã khánh thành sau một thời gian xây dựng nhiều năm. Đến năm 1691, chùa đã được chúa Nguyễn Phúc Chu ban biển ngạch và câu đối.
Về Thiền sư Nguyên Thiều, các tài liệu cho biết ngài họ Tạ, có các danh xưng là Hoán Bích và Siêu Bạch, người huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, tỉnh Quảng Đông. Năm 19 tuổi, ngài xuất gia; rồi, không lâu sau đó, theo thuyền buôn người Quảng Đông tới xứ Đàng Trong vào năm 1665 dưới đời chúa Nguyễn Phúc Tần, lập am Di Đà tại gò Thập Tháp như đã nói ở trên. Một thời gian sau, xây dựng chùa Thập Tháp Di Đà xong, ngài Nguyên Thiều giao việc chăm sóc ngôi chùa cho một vị thiền sư đồng môn là Hòa thượng Đạo Nguyên (1656-1716) và một vị cao đồ là Hòa thượng Kỳ Phương (1682-1744) để ra Thuận Hóa theo yêu cầu của chúa Nguyễn Phúc Tần, lập nên chùa Quốc Ân, xây tháp Phổ Đồng, rồi lại đến trụ trì chùa Hà Trung ở xã Hà Trung, huyện Phú Lộc, thuộc ngoại ô phủ Thừa Thiên và thị tịch tại đó, thọ 81 tuổi. Ngài cũng đã từng vào Gia Định lập chùa Giác Duyên. Các tài liệu cho biết, lúc thị tịch, ngài được chúa Nguyễn Phúc Chu tặng thụy hiệu là Hạnh Đoan. Minh vương Nguyễn Phúc Chu là vị chúa Nguyễn thứ sáu của chính quyền xứ Đàng Trong, lên ngôi năm 1691 và mất năm 1725; như vậy, chắc chắn ngài Nguyên Thiều phải tịch trong khoảng thời gian đó chứ không thể trễ hơn như một số tài liệu hiện lưu hành.
Trở lại với chùa Thập Tháp, người ta biết đây là nơi xuất thân và hành đạo của nhiều vị thiền sư danh tiếng, có công trong việc hoằng truyền Phật pháp, như các ngài Liễu Triệt, Mật Hoằng, Minh Lý, Phước Huệ, Kế Châu... Chùa nằm trên đồi Long Bích, trước mặt là núi Mò-O (có người gọi là núi Thiên Bút hoặc núi Thiên Đình), sau lưng được bao bọc bởi một nhánh của sông Côn, ở một phía còn có con sông Quai Vạc chảy quanh; phía trước cổng chùa có một hồ sen rộng chừng năm trăm mét vuông, bờ hồ được xây bằng đá tổ ong. Qua mấy trăm năm, chùa đã được trùng tu tôn tạo nhiều lần. Lần trùng tu đầu tiên được thực hiện vào năm 1749 vào lúc Thiền sư Liễu Triệt trụ trì, trong thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (Võ vương). Lần trùng tu này, ngài Liễu Triệt đã cho xây dựng lại một ngôi chánh điện khang trang. Sau đó, các ngài Mật Hoằng, Minh Lý, Phước Huệ, Kế Châu... đều có những đóng góp quan trọng cho việc duy trì và mở rộng ngôi phạm vũ này mà vẫn không đánh mất nét cổ kính của ngôi chùa và sự hài hòa với cảnh quan thiên nhiên.
Từ ngoài vào, đi dọc hồ sen đến cổng chùa, du khách thấy ngay hai trụ gạch xây uy nghi, trên đầu trụ là hai con sư tử đá. Giữa hai trụ đá có một vòng cung nối liền, phía trên gắn hai chữ “Thập Tháp”. Qua khỏi cổng là một bức bình phong; mặt bình phong có đắp nổi hình long mã phù đồ đặt trên một bệ chân quỳ. Chùa được xây theo kiểu chữ khẩu, gồm chánh điện, tây đường, đông đường và nhà phương trượng. Chánh điện có mái thẳng, lợp ngói âm dương, trên nóc có đắp hình lưỡng long tranh châu; kết cấu sườn đỡ tòa chánh điện gồm bốn hàng cột, trong đó tám cột hàng nhất cao 6 mét, tám cột hàng nhì cao 5 mét, cột to một người ôm không xuể; các đoạn trính được cấu tạo theo kiểu giá chiêng, hai đầu chạm hoa cuộn, ở những đoạn đầu kèo có chạm hình đầu rồng cách điệu, nét tròn giản dị, uốn lượn thanh nhã. Bên trong chánh điện có Phật điện bài trí trang nghiêm, chính giữa thờ Tam thế Phật, hai bên có các khám thờ Bồ-tát Quán Thế Âm và Bồ-tát Địa Tạng. Tượng các vị La- hán, các vị Minh vương ở mười tầng địa ngục, các vị Hộ pháp cùng với tượng của các Tổ sư Đạt-ma và Tỳ-ni-đa-lưu-chi được bài trí hai bên vách tả hữu. Được biết các tượng này đều được tạc dưới thời thiền sư Minh Lý trụ trì. Giữa cửa chính của ngôi chánh điện có tấm biển lớn ghi rõ “Sắc tứ Thập Tháp Di Đà tự” bằng chữ Hán, chính là tấm biển được Minh vương Nguyễn Phúc Chu tặng khi mới lên ngôi nhưng do binh lửa thời Tây Sơn đã bị hư hoại và sau này ngài Mật Hoằng khắc lại. Hai đầu hành lang thiết trí đại hồng chung và đại cổ (trống bát- nhã). Nhà phương trượng nằm sau chánh điện do Hòa thượng Phước Huệ xây dựng năm 1924. Nối chánh điện với nhà phương trượng ở phía Nam là ngôi nhà tổ, nơi thờ tổ khai sơn Nguyên Thiều cùng chư vị tổ sư kế thế trụ trì, chư Tăng quá cố và hương linh của các Phật tử. Đối diện nhà Tổ là giảng đường, nơi chứng kiến những cuộc hội họp của Tăng chúng hoặc các chúng cư sĩ, và là nơi tiếp khách. Trong giảng đường còn lưu giữ những bản gỗ khắc bài “Thập Tháp tự chí” của một vị Thị giảng học sĩ tùng sự tại phủ An Nhơn sáng tác năm 1928 ghi lại lịch sử khai sáng, quá trình xây dựng và truyền thừa của tổ đình Thập Tháp đến lúc bấy giờ. Giảng đường cũng là nơi tàng trữ một số ván khắc mang nội dung các bản sớ sao về kinh Di Đà, kinh Kim Cang và kinh Pháp Hoa. Một bộ Đại tạng kinh tương truyền là do vị Tổng trấn Hà Tiên Mạc Thiên Tứ cúng dường cũng được cất giữ cẩn thận tại giảng đường này. Một nét đặc biệt khiến du khách viếng chùa Thập Tháp vừa thích thú vừa bỡ ngỡ là suốt từ cổng vào đến các dãy nhà, đâu đâu cũng có thể thấy hoành phi hay liễn đối với những nét chữ bay bướm của các vị thiền sư hay các bậc túc nho Phật tử; được biết nội dung các câu đối đều thể hiện được lẽ uyên áo của Phật pháp hay cảnh trí u nhã của ngôi chùa.
Rời quần thể kiến trúc chính, du khách tiếp tục đến chiêm bái vườn tháp Tổ ở phía trái, nơi có tất cả hai mươi mốt ngôi tháp mộ cổ kính an trí nhục thân các vị trụ trì và các bậc tôn túc trong chùa. Sau lưng chùa, nằm trên đồi Long Bích còn có tháp Bạch Hổ. Tương truyền dưới thời Thiền sư Liễu Triệt trụ trì, có một con cọp trắng hằng đêm rời núi rừng đến gần chùa nghe kinh, con cọp không ăn thịt và không làm hại ai nên Phật tử quanh vùng cũng không cần nghĩ đến việc đuổi cọp. Một hôm, trong lúc thiền định, Hòa thượng Liễu Triệt cảm nhận có một vị lão trượng râu tóc bạc trắng đến báo vừa mãn phần hiện yên nghỉ sau chùa, xin được Hòa thượng cùng Tăng chúng tụng kinh để được siêu độ. Sáng hôm sau, ngài Liễu Triệt cho người tìm khắp vùng thì chỉ thấy xác con cọp trắng nằm chết, Hòa thượng cho thu lượm rồi lập tháp để an trí xác cọp. Gần bên tháp Bạch Hổ còn một ngôi tháp được gọi là tháp Hội Đồng; được biết đây là nơi tổ chức trai đàn cầu siêu cho những vong linh oan hồn uổng tử bỏ mạng trong các cuộc chiến tranh mà khi khai hoang, nhà chùa đã thu nhặt và chôn cất tử tế.
Về thăm chùa Thập Tháp, du khách còn được nghe những mẩu chuyện về sự tích hòn đá chém, một hòn đá cho rằng được các quan tư pháp nhà Nguyễn dùng làm chỗ hành hình những người theo phong trào Tây Sơn ra đầu thú; hay sự tích vỏ lúa, vỏ của hạt lúa gốc có thể tự nảy mầm trổ hạt mà không cần gieo cấy... nhưng e đó chỉ là những truyền thuyết.
Đứng trên đồi Long Bích nhìn về thành Đồ Bàn, du khách không khỏi ngậm ngùi cho cuộc hưng vong của một dân tộc; nơi từng là đế đô của một vương quốc kiêu hùng với những thềm vàng bệ ngọc, cung điện nguy nga, nay chỉ còn lại xa xa phía Tây nam một ngọn tháp Cánh Tiên. Cũng may, tiếng chuông chùa Thập Tháp ngân nga trong gió chiều cũng đủ làm lòng người lắng những vọng niệm. Khung cảnh tịch mịch của ngôi chùa trong những ngày vắng khách thập phương khiến cho tâm hồn người viếng chùa thanh thoát tĩnh lặng để cảm nhận lẽ vô thường. Giữa lúc lòng người xao động, nơi đâu cũng đua chen tìm đến với chùa to tượng lớn, viếng chùa Thập Tháp, người Phật tử thành tâm mừng rằng đâu đó trên đất nước này vẫn còn cảnh trí thiền môn được chăm chút giữ gìn làm nơi quy hướng.
Nguồn: Vietnamnet



