TIỂU SỬ Ni trưởng THƯỢNG NHƯ HẠ NGỌC (1917 - 2022)
- Nguyên Ủy viên Hội đồng Trị sự GHPGVN khóa 3, 4, 5 - Nguyên Phó ban Trị sự GHPGVN tỉnh Đồng Tháp khóa 1, 2, 3, 4, 5 - Chứng minh Phân ban Ni giới Trung ương, - Chứng minh Phân ban Ni giới Phật giáo tỉnh Đồng Tháp - Nguyên Ủy viên MTTQVN tỉnh Đồng Tháp - Nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Đồng Tháp - Nguyên Hiệu phó Trường Trung cấp Phật học Đồng Tháp - Viện chủ Chùa Phước Huệ I. THÂN THẾ Ni trưởng thế danh là Chế Thị Gi, pháp danh Diệu Đạo, húy Chơn Niệm, hiệu Giác Ngọc, dòng Lâm Tế Chánh Tông, đời thứ 41. Ni trưởng sinh ngày 29 tháng 7 năm Đinh Tỵ (1917) tại Thủ Ô, thuộc tỉnh Sa Đéc (nay là ấp Hòa Thuận, xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp). Thân phụ là cụ ông Chế Văn Cảnh, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Xướng. Cả hai lúc tuổi già đều xuất gia theo Phật, pháp danh là Sa-di Siêu Thời và Sa-di Ni Huệ Phụng. Gia đình có 5 chị em, người chị cả xuất gia, về sau là Ni trưởng Như Hoa; còn Ni trưởng là người con thứ năm. II. THỜI KỲ XUẤT GIA - HÀNH ĐẠO Ni trưởng được sinh ra và lớn lên trong một gia đình trung nông Nho giáo, nhưng lại có tâm kính tin Tam bảo. Thuở thiếu thời, Ni trưởng được cha mẹ thương yêu và chăm lo việc học hành. Được thừa hưởng dòng tri thức của thân phụ, Ni trưởng đã thông suốt chữ Nho, tiếng Việt và cả tiếng Pháp. Thời gian lặng lẽ trôi qua, Ni trưởng dần lớn lên và trở thành cô giáo làng, dạy học cho những đứa trẻ trong xóm không có điều kiện đến trường. Trong thời kỳ kháng Pháp, quê hương của Ni trưởng là Thủ Ô, một địa danh thôn quê xa xôi, hẻo lánh thuộc tỉnh Sa Đéc; nơi mà hơn ba trăm năm về trước, trên bước đường mở đất phương Nam, người Việt đã đến đây khai hoang, lập nghiệp. Đây là một vùng sông nước, với đồng ruộng mênh mông, lau sậy sầm uất, rất thuận lợi cho Cách mạng lập chiến khu. Năm xưa, mỗi khi lính Tây càng quét qua đây, khi có một vài sỹ quan hay binh lính bị tổn thương, thì đồng nơi ấy phải gánh chịu sự đàn áp của bọn chúng. Nhiều người dân vô tội, bị tình nghi là hoạt động cách mạng, đã bị bắt và bị giết hại, xác thả trôi sông. Đây cũng là một dấu ấn khó quên, thôi thúc Ni trưởng tham gia vào công cuộc kháng chiến chống thực dân và đế quốc. Thời gian thấm thoát, người chị cả là Ni trưởng Như Hoa đã xuất gia tu học tại chùa Kim Huê. Thấy Ni trưởng giờ là một cô gái đã trưởng thành, nết na, gia phong, hiền dịu, ông bà cụ nghĩ đến việc lập gia thất. Cảm nhận được đời sống giản dị trong chiếc áo nâu sòng, sự an nhiên thoát tục ngay giữa cõi đời giả tạm. Rất khó tránh khỏi sự ràng buộc gia đình, nếu vâng lời hai cụ thân sinh, phút chốc nghĩ đến người chị cả cao quý, Ni trưởng quyết tâm tìm cách rời gia đình, để thực hiện chí nguyện xuất gia cầu giải thoát. Nhận được sự chỉ dạy và sắp xếp của chị cả, Ni trưởng rời nhà đến chùa Kim Huê, xin Sư cụ xuất gia, học đạo. Thời gian sau, khi tìm đến chùa Kim Huê để gặp hai con gái, ông bà được Hòa thượng Trụ trì, bấy giờ là Sư cụ thượng Chánh hạ Quả khuyên nhủ, nên cho Ni trưởng xuất gia, vì căn tánh của mỗi người mỗi khác, không phải ai cũng muốn đi tu, không phải ai cũng có duyên lành, chọn cho mình con đường giải thoát. Việc Ni trưởng đi tu là để giác ngộ tự thân và cứu độ thân bằng quyến thuộc. Khi nghe lời khuyến tấn từ hòa, trí tuệ của Hòa thượng, hai Ông Bà hoan hỉ ra về, trong lòng hai cụ chợt thấy yên tâm về con đường mà hai cô con gái đã quyết tâm lựa chọn. Nhờ túc duyên đã gieo trồng căn lành, không màng đến những buồn vui thế tục, Ni trưởng luôn cần mẫn siêng năng, theo chị cả tập tu, nguyện ước một ngày sớm được khoác lên mình chiếc áo giải thoát. Nhận thấy được chí nguyện xuất trần, một thạch trụ tòng lâm, pháp khí cho hàng Ni giới trong tương lai, vào mùa xuân năm Tân Tỵ (1941), sư cụ Kim Huê chấp thuận cho Ni trưởng xuất gia, ban cho pháp danh là Diệu Đạo, tự Chơn Niệm, hiệu Giác Ngọc. Thế là cánh cửa giải thoát được mở ra với Ni trưởng kể từ đấy. Được dự vào hàng xuất gia, tâm nguyện cầu đạo Bồ-đề nơi Ni trưởng ngày càng kiên cố. Một phần được sự giáo huấn nghiêm minh của Sư cụ. Một phần được sự động viên, khuyến tấn của người chị cả khả kính, ngoài việc sáng công phu, chiều tịnh độ, chấp lao phục dịch cùng đại chúng, Ni trưởng càng tinh tấn, gia tâm tu học. Tại đây, Ni trưởng được Sư cụ cho phép cùng lúc truyền giới Sa-di ni và Thức-xoa-ma-na. Vào năm 1943, Ni trưởng được Sư cụ cho phép thọ Cụ túc giới, tại Giới đàn chùa Kim Huê, do Hòa thượng thượng Chánh hạ Quả làm Hòa thượng Đàn đầu. Cũng vào năm 1941, có hai nữ Phật tử giàu có bậc nhất ở làng Tân Hưng, Sa Đéc, phát tâm xây dựng ngôi chùa Phước Huệ, tại xã Tân Vĩnh Hòa, rồi xin dâng cúng cho Hòa thượng Chánh Quả (Sư cụ Kim Huê) và thỉnh Ngài làm trụ trì. Sau nhiều lần đắn đo, cân nhắc, Hòa thượng hứa khả. Ni trưởng cùng với hơn 30 chúng Ni được về tu học tại đây, dưới sự quản lý và chỉ dẫn của Ni trưởng Như Hoa. Mỗi nửa tháng, Hòa thượng đến dạy Kinh, Luật như: Sa-di Ni, luật Thức-xoa, luật Tỳ-kheo Ni, kinh Phạm Võng, Trường A-hàm, Quy Ngươn Trực Chỉ và nghi thức truyền giới cho chư Ni. Năm 1947, chùa Phước Huệ bị thiêu hủy trong phong trào tiêu thổ kháng chiến, chư Ni phải dựng lại chùa bằng tre lá để ở tạm. Một số vị rời đi tìm trường tiếp tục con đường tu học, những vị còn lại bám trụ giữ đất, mong có cơ hội phục hồi mảnh đất thiêng, với ngôi chùa thân thương, trải qua nhiều năm tháng, đã chở che mưa nắng cho chư Ni sớm kệ chiều kinh. Năm 1950 Ni trưởng xin nhập chúng tu học tại Phật học Ni viện Từ Nghiêm, đường Bà Hạt – Chợ Lớn. Năm 1952, khi chùa Từ Nghiêm bị cháy, Ni trưởng cùng ni chúng được quý Hòa thượng trong Ban giám đốc đưa về chùa Dược Sư (Gia Định), tiếp tục tu học đến năm 1957. Thời gian này, khi được tham dự khóa đào tạo Sứ giả Như Lai, Ni trưởng luôn chuyên tâm tu học, không phút giây xao lãng. Mỗi khi được học một bộ kinh mới, Ni trưởng lên đảnh lễ Tam Bảo, cầu nguyện cho hai vị thân sinh được mạnh khỏe, để sự nghiệp tu học tự thân không dừng lại nửa chừng. Năm 1957, Ni trưởng Như Hoa phát nguyện trùng tu chùa Phước Huệ, đã bị hư hỏng nặng bởi cơn binh lửa từ năm 1946. Ni trưởng đã rời Ni trường Dược Sư, về lại Sa Đéc để phụ giúp việc tu sửa. Đến năm 1958, sau khi việc trùng tu được hoàn tất, Ni trưởng Như Hoa chính thức giao cho Ni trưởng trụ trì chùa Phước Huệ tiếp độ ni chúng, để Ni trưởng Như Hoa về lại Sài Gòn hợp tác cùng quý Ni trưởng thành lập Ni bộ Bắc tông. Trong những năm biến cố bởi chiến tranh, tại chùa Phước Huệ, ban ngày bị lính Pháp chiếm đóng; đêm lại dân quân Cách mạng về ẩn náu trú ngụ. Những khó khăn chồng chất là vậy, nhưng nhờ vào sự lãnh đạo và sắp xếp khéo léo của Ni trưởng nên mọi việc đều được suông sẻ. Năm 1963, khi Pháp nạn xảy ra, cuộc đấu tranh chống lại chế độ độc tài của chính phủ Nhu Diệm, Ni trưởng vừa lo kinh tế cho Phước Huệ, vừa ủng hộ Ni trưởng Như Hoa tham gia đấu tranh, biểu tình tại Việt Nam Quốc Tự Sài Gòn; đồng lao cộng khổ với quý Chư tôn đức như: Hòa thượng Thiện Hào, Hòa thượng Minh Nguyệt, đấu tranh cho dân tộc, cho Phật giáo. Sau cuộc Pháp nạn năm ấy, Ni trưởng về lại chùa Phước Huệ, tiếp tục sự nghiệp hướng dẫn ni chúng tu học. Năm 1960, được sự động viên của một vị Giáo sư và được sư cụ chùa Kim Huê cho đất, Ni trưởng thành lập trường Bồ Đề, nhằm đào tạo đội ngũ kế thừa cho Giáo hội, có đủ trình độ văn hóa, trình độ thế học, giúp ích cho việc nghiên cứu Phật pháp. Với tinh thần “Truyền đăng tục diệm”, Ni trưởng luôn nuôi dưỡng và phát huy hạnh nguyện tiếp độ chúng ni. Nhiều vị ni xuất thân từ Ni trường Phước Huệ, hôm nay đã thành công trong những Phật sự, công tác Giáo dục, Hoằng pháp, lãnh đạo ni giới. Ngoài ra, những năm trước 1975, mỗi năm Ni trưởng đều mở Trung, Tiểu giới đàn. Ni trưởng thỉnh Chư tôn đức Ni tại tỉnh Đồng Tháp như Ni trưởng Như Hoa (chùa Phước Huệ), Ni trưởng Như Nghĩa, Ni trưởng Như Trinh (chùa Hải Huệ), Ni trưởng Như Lý (chùa Từ Nguyên), Ni trưởng Như Ngọc (chùa Long An), Ni trưởng Như Nghĩa (chùa Long Phước), Ni trưởng Như Hậu (chùa Bảo An), Ni trưởng Như Hiếu (chùa Tây Hưng), Ni trưởng Như Châu (chùa Thanh Lương)... vào hàng Giới sư, để truyền giới Sa-di Ni và Thức-xoa-ma-na; chùa Từ Nghiêm – trụ sở của Ni bộ Bắc tông là nơi quy tụ giới tử cầu thọ Tỳ-kheo Ni giới. Từ năm 1984 trở đi, được sự chỉ đạo của Giáo hội Trung ương, chùa Phước Huệ là một trong các trú xứ được chọn là nơi mở Đại giới đàn cho giới tử Ni. Tại các Giới đàn do Ban Trị sự tổ chức, Ni trưởng là: 1/ Đệ Tam Tôn chứng tại Đại Giới Đàn… (1984) 2/ Đệ Nhị Tôn chứng tại Đại Giới Đàn Vĩnh Đạt… (1988) 3/ Ban Tổ Chức Đại Giới Đàn… (1992) 4/ Yết-ma A-xà-lê tại Đại Giới Đàn…(1995) 5/ Yết-ma A-xà-lê tại Đại Giới Đàn …(1998) 6/ …(2001) 7/ …(2004) 8/ …(2007) 9/ Ban Chứng minh Đại Giới Đàn Vĩnh Đạt (2010) 10/ Hòa thượng Đàn Đầu – Đàn … tại Đại Giới Đàn Vĩnh Tràng (2013) 11/ Ban Chứng minh Đại Giới Đàn Vĩnh Đạt (2016) 12/ Hòa thượng Đàn Đầu – Đàn … tại Đại Giới Đàn Vĩnh Đạt (2018) 13/ 14/ Ban Chứng minh Đại Giới Đàn Từ Nhơn (2021) Ngoài ra, Ni trưởng còn nhận sự cung thỉnh từ Ni viện Thiện Hòa; lời mời của Ban Trị Sự Phật giáo tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu làm thành viên của Hội đồng Thập sư truyền giới cho giới tử thuộc các tỉnh miền Đông: 1/ Hòa thượng Đàn đầu, đàn Sa-di ni tại:- Đại giới đàn Thiện Hòa I (1993)
- Đại giới đàn Thiện Hòa II (1996)
- Đại giới đàn Thiện Hòa III (2000)
- Đại giới đàn Thiện Hòa IV (2003)
- Đại giới đàn Thiện Hòa V (2006)
- Đại giới đàn Thiện Hòa II (1996)
- Đại giới đàn Thiện Hòa III (2000)
- Đại giới đàn Thiện Hòa VI (2009)
- Đại giới đàn Thiện Hòa VII (2013)
- Đại giới đàn Đồng Huy (2016)
- Đại giới đàn Bảo Tạng (2018)