Trong thời pháp thoại, Hòa thượng chia sẻ đã chia sẻ với đại chúng về lịch sử chùa Bà Đá - một ngôi cổ tự nằm giữa phố cổ. Theo Hòa thượng, chùa Bà Đá hay còn gọi là Linh Quang tự, được xây dựng vào khoảng thời Hậu Lê, thời Lê Trung Hưng. Chùa trước đây thuộc về thôn Tự Tháp, phường Báo Thiên, huyện Thọ Xương của kinh thành Thăng Long xưa. Ngày nay tọa lạc tại số 3 phố Nhà Thờ, phường Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Hà Nội có 4 ngôi chùa mang tên bốn bà: Bà Ngô, Bà Lành, Bà Đanh, Bà Đá. Bà Đá ở số 3 Nhà thờ, Bà Ngô ngày nay ở khu vực phố Nguyễn Khuyến, Bà Lành ở cuối phố Nguyến Khuyến giáp với Văn miếu Quốc Tử Giám. Còn chùa Bà Đanh tức là chùa Phúc Lâm ngày nay thuộc chân cầu Long Biên ở khu vực nội thành Thăng Long xưa. Trong chùa Bà Đá hiện còn 2 tấm bia cổ quan trọng ghi lại sự tích ngôi chùa, niên đại tạo dựng và công đức của liệt vị Tổ sư. Trong chùa ngày nay có tới 4 quyền khoa cúng của 4 đời Tổ sư, từ Tổ đệ nhất cho tới Tổ đệ tứ. Một khoa tổng cúng liệt vị Tổ sư, trong bản khoa cúng này các bậc tiền bối đã sao chép lại toàn bộ các văn bia đó cũng như lịch sử của ngôi chùa, lịch sử của các vị Tổ sư.
Vào niên Hiệu Hồng Đức, ở tại thôn Tự Tháp, phường Báo Thiên, huyện Thọ Xương của kinh thành Thăng Long này đã có một ngôi Am tranh. Lúc đó chưa thành chùa hẳn mà chỉ là nơi để người dân thờ Phật, cả Phật Giáo và tín ngưỡng cùng nhau. Trước đây người dân chỉ thờ Phật một cách rất đơn sơ. Sau này, trong quá trình đào móng xây tường làm chùa, cứ xây lên là đổ, lúc đó người ta đào sâu xuống dưới lòng đất hơn nữa thì thấy có một pho tượng hình dáng người phụ nữ bằng đá, từ đó người dân thấy được sự linh thiêng nên đã tắm rửa pho tượng đó đưa lên thờ. Từ khi thờ tự trang nghiêm, mọi người qua lại lễ bái, họ cho rằng có sự linh ứng khi cầu đảo và tên Bà Đá có từ đó.
Trải qua nhiều năm tháng phụng thờ, tới năm 1786, qua một trận hỏa hoạn, ngôi chùa bị cháy. Lúc này có gia đình ông Đỗ Bá Ngân tự Khoang Lượng và vợ là bà Lý Thị Khiêm người ở huyện Thanh Trì đã phát tâm đứng ra xây dựng lại ngôi chùa, đồng thời vẫn phụng thờ pho tượng đá đó ở trong chùa. Có điều linh thiêng là tuy ngôi chùa bị cháy, binh đao thời chiến tranh loạn lạc nhưng pho tượng Bà Đá vẫn còn nguyên, trong lần xây dựng này thì đặt tên ngôi chùa là Linh Quang Tự. Sau khi nhắc lại về lịch sử hình thành chùa Bà Đá, Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm đã chia sẻ cho đại chúng về quá trình truyền đăng tục diệm của ngôi cổ tự này. Theo đó, ngôi chùa đã trải qua 9 đời trụ trì trước khi trở thành Trụ sở Ban trị sự như ngày nay.
- Năm 1793, người dân làng Hàng Trống đã hoan hỷ thỉnh mời HT.Khoan Nhai (1742 - 1821) thuộc thế hệ thứ 6 dòng Tào Động, Hồng Phúc - Hòe Nhai về làm trụ trì. HT Khoan Nhai được coi như là vị Tổ thứ nhất của chùa Bà Đá. Ngày mùng 4 tháng 12 năm 1821 tổ Khoan Nhai viên tịch
- Nhị Tổ là HT.Giác Vượng (cũng có nơi ghi là Giác Viên) trụ trì đã làm một đợt trùng tu vững chãi, mở mang cảnh giới, mở rộng phạm vi hoạt động của sơn môn Bà Đá từ đây vào trong Thanh Hóa, lên tận Bắc Ninh.
- Tam tổ là ngài Phổ Sĩ Từ Tuyên (1819 - 1864). Bắt đầu đến vị tổ thứ 3 này thì không theo sự truyền kệ của dòng Tào Động nữa mà nghiêng hẳn về dòng Lâm Tế cho nên vị tổ thứ ba này có chữ đầu là Phổ.
- Đệ tứ tổ chùa Bà Đá là ngài Thông Toàn hiệu là Thuần Hợp (1864 - 1917) thọ 72 tuổi.
- Ngũ tổ là Ngài Tầm Khoản Trang Nghiêm, nhưng Ngài cũng viên tịch sớm năm 1922.
- Đến năm 1922, đệ lục tổ Tâm Thịnh Trung Trực đã kế đăng trụ trì. Tổ có công lao mở trường dạy học và in kinh sách. Tổ có công lớn nhất là kêu gọi Tăng Ni trong sơn môn và thập phương Tăng của miền bắc khắc ván in bộ kinh Đại Bảo Tích. Đại sư Thượng Nhân Trí Quang đã từng nói rằng các Tổ ngày xưa mà in được một bộ kinh thì được người ta ví như bây giờ xây một ngôi biệt thự. Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm cho biết: "Mỗi một tờ kinh là một tấm ván, dãy hành lang chùa Bà Đá là ván kinh của bộ kinh này, sau này chúng tối đóng tủ để bảo quản lại. Quy tụ của tổ Tâm Thịnh về hợp lòng đại chúng, Tăng Ni toàn Bắc Kỳ để góp công sức in được bộ kinh này. Tôi là người được diễm phúc thừa kế ngôi chùa Lý Triều Quốc Sư, HT trụ trì Lý Triều Quốc Sư này còn lưu lại để cho tôi được chiêm ngưỡng phụng thờ là bộ kinh Bảo Tích, chính bộ này là ở tại bản tự đây. Đây là tập thứ nhất trong bài tựa ghi lại lý do in bản kinh và danh sách của hai vị tổ chứng minh là thiền gia Pháp chủ trưởng lão HT Thanh Anh (tổ Vĩnh Nghiêm) và tổ đệ Tam của sơn môn Tế Xuyên Bảo Khám là tổ Phổ Tụ chứng minh in khắc bộ kinh này, nhưng chủ đốc công là tổ Tâm Thịnh - đệ lục tổ trụ trì của chùa Bà Đá. Tập thứ 24 ghi lại toàn bộ danh sách các sơn môn, hệ phái Phật Giáo Bắc Kỳ cúng tiền để in kinh, từ các bậc danh Tăng tổ đức thời đó cho tới các vị thiện nam tín nữ; mỗi một điểm đen là đánh dấu từng sơn môn, được ghi chép với trình tự rất khoa học. Chúng tôi rất vui khi thấy công trình này đã giúp ích rất nhiều cho nghiên cứu về Phật giáo các chùa sau này, bởi vì ghi rõ tên chùa, tên vị sư đó và số tiền cúng. Sau khi đệ tam tổ sơn môn Tế Xuyên viên tịch năm 1926 chúng tôi không biết khi đó ai là người phù tá Tổ mà chỉ biết là tứ tổ tức tổ Phổ Hà, nhưng trong này ghi rõ Tế Xuyên bảo khám Thông Lâm, lúc đó chúng tôi biết ngay vị này là người hầu cận tổ đệ tam. Cho nên có công trình ngoài kinh điển đồ sộ này, nói về nghiên cứu sử sách, về sự truyền đăng của Phật Giáo thì góp phần rất lớn cho sự nghiên cứu. Bộ kinh Đại Bảo Tích này khắc vào mùa xuân năm 1926 (năm Bính Dần) và mùa đông năm 1928 mới hoàn thành. Công trình phải biên chép rồi khắc, mà lại khắc ngược thì in mới thành. Điều đó cho thấy công lao vô cùng vĩ đại mới được bộ kinh dài, rất may bộ vấn kinh vẫn còn đang lưu trữ tại chùa Bà Đá, nhưng trong tủ kinh chùa Bà Đá không còn bộ kinh này. Chúng tôi rất may mắn khi về kế đăng trụ trì HT Thanh Định ở đây vẫn còn được chiêm ngưỡng. Bộ kinh này tới nay được 94 năm, đây là một gia bảo. Chùa Lý Quốc Sư này còn bộ kinh Hoa Nghiêm kinh xếp. Quyển thứ 24 bộ kinh này ghi lại toàn bộ danh sách của những người cúng, điều đó cho thấy rằng tổ Tâm Thịnh có ảnh hưởng rất lớn. Công đức in kinh và tầm quan trọng của bộ kinh Đại Bảo Tích - một bộ kinh lớn trong kinh điển Đại thừa đã được toàn bộ Tăng Ni - các bậc danh tăng, các nhà hảo tâm của xứ Bắc Kỳ lúc đó cùng với tổ Tâm Thịnh hợp lực để khắc ván để in ra bộ kinh này, điều này nói lên sự đoàn kết hợp lực dưới sự hiệu triệu, quyên góp của tổ Tâm Thịnh. Ngoài ra thì trong đó còn khắc các bộ kinh Địa Tạng, Sám Mục Liên, kinh Nhật Tụng và các bộ kinh nhỏ nữa. Khi sắp xếp lại ván kinh, chúng tôi thấy rằng mặc dù trong khoa giáo này không ghi lại nhưng mà thấy còn lưu lại đó mới biết rằng dưới thời tổ Tâm Thịnh và các bậc tiền bối in khắc rất nhiều ván kinh. Một bộ kinh rất tốn công và cầu kỳ vô cùng, nếu ai nghiên cứu về sự in ấn của Phật Giáo Việt Nam hay của đất nước Việt Nam thì chúng ta mới thấy sự cầu kỳ, khổ công của người xưa".
- Tổ thứ bảy của chùa Bà Đá là HT. Đỗ Tâm Hỷ, pháp danh Tâm Hỷ hay gọi là HT Thanh Thao.
- Từ năm 1968, HT.Thanh Doãn trụ trì, là vị Tổ thứ tám.
- Vị tổ thứ chín là HT Thanh Thành, sau Ngài viên tịch vào năm 2009.
Từ năm 1958, hội Phật Giáo Cứu Quốc thành lập ở nơi đó, Ban đại diện Phật Giáo thủ đô thành lập ở Bà Đá - là nơi cơ quan đầu não của Phật Giáo Hà Nội. Từ đó trải qua các đời trưởng ban trị sự.
Đầu tiên là HT đệ nhất Pháp chủ Đức Nhuận lúc đó làm trưởng ban trị sự, sau kế tiếp là HT Quảng Dung thuộc sơn môn Đa Bảo là phó Hội trưởng hội Phật Giáo Thống nhất Việt Nam. Ngài cư ngụ tại chùa Quán Sứ nhưng Ngài là trưởng ban trị sự. Sau năm 1981, HT Quảng Dung viên tịch thì HT Giám Sinh (HT Thích Nguyên Sinh) sau này là chánh thư ký Hội đồng chứng minh, làm trưởng ban trị sự.
Tới năm tháng 10/1983, HT Nguyên Sinh viên tịch, HT Thích Tâm Tịch làm Trưởng ban trị sự cho đến năm 2005. Từ năm 2005 cho tới năm 2007, HT Thích Thanh Chỉnh làm Trưởng ban trị sự. Tháng 12 năm 2008, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam sát nhập Hà Nội với Hà Tây mở rộng Hà Nội, lúc đó Giáo hội Phật Giáo Việt Nam thành phố Hà Nội được thành lập, Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm được công cử làm Trưởng ban trị sự từ năm 2008 cho tới ngày nay.
Qua bài giảng này, Hòa thượng mong muốn hàng Phật tử hiểu được sự đóng góp của Phật giáo Thủ đô Hà Nội trong sự phát triển của Thăng Long Hà Nội ngày nay. Đặc biệt nhất là khu vực tháp Báo Thiên đầy sự kiện lịch sử của các ngôi chùa cổ kính và dấu ấn của Phật Giáo trên đất quận Hoàn Kiếm. Để từ đó tự hào về Phật Giáo quá khứ, biết tri ân các bậc Tổ, chư vị tiền bối đã duy trì chấn hưng Phật Giáo để cho GHPGVN Tp. Hà Nội ngày nay được kế thừa.