TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH ĐẠT PHÁP
(1923-2014)
HÒA cảnh Phật trang nghiêm, khai mở giới trường tuyển người làm Phật
THƯỢNG thông huyền cơ diệu dụng, tuyên dương Luật tạng Tỳ-ni
ĐẠT Thích chủng thiền gia, liễu chân thường, tùy duyên hóa độ
PHÁP Phật nhiệm mầu hiển bày, tông phong vĩnh chấn trùng quang.
Hậu thế bày tỏ tấc lòng kính ân, ngưỡng vọng công hạnh của Trưởng lão Hòa thượng, Ban Thường trực Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Long An năm 2025 (Ất Tỵ) phụng thỉnh tôn hiệu, kính nêu trang sử, lưu danh cuộc đời tu học hành đạo của Ngài, mong cảm ứng duyên lành, cát tường tụ hội, Đại giới đàn tôn hiệu ĐẠT PHÁP thành tựu viên mãn.
1. Thân thế:
Hòa Thượng Thích Đạt Pháp, thế danh là Võ Văn Thượng, sinh năm Quý Hợi (1923) tại xã Thuận Thành, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An. Thân phụ là cụ ông Võ Văn Đâu, thân mẫu là cụ bà Đào Thị Quế. Hòa Thượng được sinh ra trong gia đình có bốn anh em (01 trai, 03 gái), nhiều đời kính tin Tam Bảo. Năm ngài lên 12 tuổi, cha và mẹ đều lần lượt qua đời. Bốn anh em của ngài được hai bên nội ngoại bảo bọc thương yêu nuôi dưỡng. Cũng từ đó, ngài siêng năng đến chùa học chữ Hán, học thêm nghề thợ mộc để có thể chăm sóc các em. Vốn tư chất thông minh, ham học lại có chí cầu tiến, Hòa thượng đạt cấp bằng tú tài I, ở độ tuổi thời đó là rất hiếm.
2. Thời kỳ xuất gia tu học:
Duyên Bồ đề nhiều kiếp, ngài thường theo ông bà đến chùa lễ Phật, được đọc tạp chí Từ Bi Âm, nhờ đó Ngài hiểu rõ chân lý Phật dạy, giác ngộ cuộc đời vô thường. Ngài đến chùa Tôn Thạnh xin làm công quả, tụng kinh bái sám. Năm 23 tuổi, duyên lành hội đủ, Ngài được Tổ Liễu Thiền, trụ trì chùa Tôn Thạnh, tiếp độ xuất gia, ban pháp danh là Tánh Vân, pháp hiệu là Đạt Pháp. Được Thầy Bổn Sư cho học kinh luật, ngài tinh tấn tu tập và thực hành các thời khóa.
Năm 1948, ngài thọ giới Sa-di tại chùa Tôn Thạnh. Sau khi thọ giới, ngài tham gia Phật học đường Lục Hòa Tăng khóa I, tại chùa Thiên Phước, Sài Gòn được cử làm Quản chúng suốt thời gian 6 năm; ngài học nghề Đông y trị bệnh giúp đời, nghề viết báo để hoằng pháp lợi sanh. Năm 1952, ngài thọ giới Cụ túc.
3. Thời kỳ hành đạo:
Năm 1955, với hạnh nguyện“Trụ pháp vương gia, trì Như Lai tạng”, Ngài trụ trì chùa Phước Hòa, Sài Gòn (trụ sở của Hội Phật Học Nam Việt), làm Cố vấn giáo hạnh gia đình Phật tử Chánh Đạo do cư sĩ Tống Hồ Cầm làm Gia trưởng, tham dự các lớp giáo lý tại chùa Ấn Quang, Khóa Như Lai Sứ Giả tại chùa Pháp Hội, Sài Gòn.
Thời gian này, ban ngày Hòa thượng lo Phật sự và phụ trách phòng thuốc từ thiện của chùa, khám trị bệnh cho đồng bào; ban đêm Ngài đi học thêm ngoại ngữ.
Giữa năm 1957, Ngài cùng Ban Quản Trị Hội Phật Học Nam Việt xây dựng chùa Xá Lợi, Sài Gòn, ngài là vị trụ trì đầu tiên của chùa Xá Lợi (giai đoạn 1957-1967). Thông thạo 2 ngôn ngữ Anh văn và Hoa văn nên Ngài thường xuyên cùng Chư Tôn đức tiếp các đoàn Phật giáo quốc tế, đặc biệt, Ngài đã trực tiếp đón Đại đức Narada cùng đoàn Phật giáo Tích Lan đến thăm Việt Nam.
Năm 1967, Hội Phật Học Nam Việt ủng hộ ngài xuất dương du học đến các nước Thái Lan, Ấn Độ, Tích Lan. Tại đây, ngài học thêm cổ ngữ Sanskrit và Pali. Do đó, kiến thức về nội điển càng thêm uyên bác. Cuối năm 1970, Ngài trở về Việt Nam.
Năm 1971, là thành viên Ban sáng lập Giáo hội Phật giáo Thiên Thai Giáo quán (Văn phòng đặt tại chùa Pháp Hội, Quận 10, Sài Gòn) Ngài giữ chức vụ Phó Trị sự, kiêm Trưởng ban Hoằng Pháp, Ủy viên Tăng sự và được mời giảng dạy các lớp giáo lý, Anh văn, Hoa văn cho nhiều Tăng Ni, Phật tử xa gần.
Năm 1972, Ngài trụ trì chùa Thiên Ân, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương.
Năm 1974, chư Tôn đức Thiên Thai Giáo Quán Tông thỉnh ngài trụ trì Tổ đình Bồ Đề (huyện Cần Giuộc) cho đến ngày viên tịch.
Năm 1980, nhận lời mời của Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ, ngài tham gia vào Ban Vận động Thống nhất Phật giáo toàn quốc.
Tháng 11 năm 1981, trên cương vị là Tông trưởng Thiên Thai Giáo Quán Tông, Ngài làm trưởng đoàn đại biểu Hệ phái tham dự Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc tại chùa Quán Sứ, thủ đô Hà Nội, ký vào Văn kiện thống nhất Phật giáo toàn quốc, thành lập Giáo hội Phật Giáo Việt Nam. Tại Đại hội này, Ngài được đề cử vào Ủy viên Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Ban Trù bị vận động thành lập Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Long An.
Năm 1983, Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Long An được thành lập, Ngài đảm nhiệm Phó ban Trị sự, kiêm Trưởng ban Hoằng Pháp tỉnh (nhiệm kỳ I).
Năm 1987-1990 (nhiệm kỳ II), Ngài được tấn phong lên hàng giáo phẩm Hòa Thượng, tiếp tục là Ủy viên Hội đồng Trị sự GHPGVN.
Liên tiếp các nhiệm kỳ III (1990-1993), nhiệm kỳ IV (1993-1997) và nhiệm kỳ V (1997-2002), ngài được cung thỉnh vào cương vị Trưởng Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Long An; được Ủy ban Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Long An mời làm thành viên chính thức và tiếp tục là Ủy viên Hội đồng Trị sự GHPGVN.
Năm 2002, Hòa thượng đã 80 tuổi, ngài dành nhiều thời gian hơn cho việc tham thiền tịnh tu, Tăng Ni tỉnh Long An kính quý cung thỉnh lên cương vị Chứng minh Ban Trị sự Tỉnh hội. Tại Đại hội Phật giáo toàn quốc nhiệm kỳ V, ngài được suy tôn là Thành viên Hội đồng Chứng minh GHPGVN cho đến ngày viên tịch.
Trong hơn 40 năm (từ năm 1970 cho đến ngày viên tịch), những lời vàng Phật dạy mà ngài tâm đắc nhất và các Kinh A Di Đà, Kinh Pháp Hoa Phẩm Phổ Môn, được ngài viết lại bằng song ngữ Anh-Hoa văn để thọ trì hằng ngày và luôn được ngài giữ gìn trân trọng, tu tập và hành trì.
Đạo lực ngày càng thăng hoa, giới đức trang nghiêm; ngài được cung thỉnh vào hàng Tam sư cho nhiều Đại giới đàn trong và ngoài tỉnh như: Đại giới đàn Minh Tánh (1996), Đại giới đàn Liễu Thiền (1999), Đại giới đàn Khánh Phước (2002), Đại giới đàn Chánh Tâm (2005), Đại giới đàn Pháp Lưu (2007), Đại giới đàn Viên Ngộ (2010), Đại giới đàn Thiện Nhu (2013).
Suốt 70 năm xuất gia tu học, hành đạo; Hòa thượng đã dành trọn đời mình phụng sự Đạo Pháp-Dân Tộc, un đúc chí nguyện của bậc xuất trần thượng sĩ, thượng cầu Phật đạo; du học nghiên tầm giáo điển uyên thâm, tham gia Giáo hội từ khi đất nước đang trong thời kỳ chiến tranh đến khi hòa bình lập lại, luôn giữ tinh thần Bồ-tát đạo hoằng pháp lợi sinh.
Năm 2006, chân dung, hành trạng của Ngài vinh dự được khắc họa qua chương trình Danh Tăng Long An với tựa đề “Dưới cội Bồ Đề” do Ban Văn hóa Phật giáo Long An kết hợp Đài phát thanh truyền hình Long An thực hiện, được đài Phát thanh truyền hình Long An công chiếu.
4. Thời kỳ viên tịch:
Hóa duyên ký tất, hạnh mãn Ta bà, Hòa thượng đã thuận thế vô thường, an nhiên viên tịch vào lúc 17 giờ, ngày 21 tháng 8 năm 2014 (nhằm ngày 26 tháng 7 năm Giáp Ngọ), trụ thế 92 năm, hạ lạp 62 năm. Nhục thân của Ngài được cung thỉnh nhập bảo tháp trong khuôn viên chùa Bồ Đề như để hằng gia hộ và nhắc nhở chúng đệ tử tinh tấn vun bồi đạo hạnh. Hòa thượng là bậc danh Tăng Việt Nam, là bậc danh Tăng Long An thế kỷ XX, XXI. Nhiều thế hệ Tăng Ni tỉnh nhà, các trường Phật học, Đại giới đàn, Phật tử gần xa được thấm nhuần ân giáo dưỡng của Ngài.
NHẤT TÂM ĐẢNH LỄ TỪ THIÊN THAI GIÁO QUÁN TÔNG BỒ ĐỀ ĐƯỜNG THƯỢNG NHỊ THẬP NHỊ THẾ, HÚY TÁNH VÂN, THƯỢNG ĐẠT HẠ PHÁP TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG GIÁC LINH THÙY TỪ CHỨNG GIÁM.
phatgiaolongan.org